Đề bài: Cảm nhận về đoạn trích Chí dũng sĩ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Bài giảng Truyện Kiều – Phần Chí khí anh hùng – Cô Trương Khánh Linh (GV )
Bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai, Kiều rơi vào trạng thái đau đớn, tuyệt vọng tột cùng: “Biết rằng chạy không khỏi trời – Cũng liều một phấn cho ngày lầu xanh”. Từ Hải bất ngờ xuất hiện trong lầu xanh và tìm gặp Kiều – tri kỷ. Với “con mắt xanh” tinh tường, Kiều nhanh chóng nhận ra Từ Hải là bậc anh hùng ngay từ khi Từ chưa làm nên sự nghiệp. Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và lấy nàng làm vợ nhưng tình yêu không thể níu chân Từ Hải. Đang chung sống yên vui bên mỹ nữ, Từ Hải bất ngờ từ biệt Kiều, ra đi làm nên sự nghiệp anh hùng.
Đây là một bài thơ đầy sáng tạo của Nguyễn Du. Đoạn trích thể hiện khí phách anh hùng của Từ Hải qua cuộc chia tay với Thúy Kiều.
Đoạn trích tập trung khắc họa hình tượng người anh hùng Từ Hải – người anh hùng có chí khí cao thượng, có quyết tâm thực hiện lí tưởng và khát vọng lớn lao của mình. Đặt Từ Hải trong cảnh chia tay với Kiều trong cảnh “hương đang sôi lửa bỏng”, Thúy Kiều “một lòng xin đi” để giữ lấy “lời lòng”, trong hoàn cảnh đó Từ Hải có điều kiện để thể hiện và thể hiện cơn khát của mình. hy vọng của anh ấy, tinh thần của anh ấy. Chí anh hùng là vẻ đẹp, là khí phách của Từ Hải, nó trở thành cảm hứng bao trùm cả bài thơ.
Trong bài thơ, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều hình ảnh không gian “bốn phương”, “bốn bề”. Đó là không gian của vũ trụ bao la khoáng đạt trước mặt người anh hùng, bầu trời dường như rộng mở và con người ấy “yên ngựa, lên đường thẳng tiến”. Không gian ấy hoàn toàn phù hợp với tính cách của Tú – một con người “đội trời đạp đất”, “ngang trời rộng sóng ngoài biển khơi”. Không gian ấy chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng phi thường của Tú.
Sống trong sự bình yên yêu thương của người vợ – người bạn tâm giao, có con mắt “sao đời”, Từ Hải bỗng “động lòng người bốn phương”. Khát vọng đấu tranh cho tự do, được sống không bị gò bó trong một khuôn khổ nhất định khiến Tú không muốn an cư lạc nghiệp. Trời cao đất rộng, không chịu ràng buộc nào “Trời cao khuấy nước mặc cho/ Chẳng biết trên cao là ai”.
Là một anh hùng với ước mơ và khát vọng lớn lao, Từ Hải cũng là một người đầy nhiệt huyết. Lần đầu gặp Kiều, Từ Hải nhanh chóng nhận ra Kiều chính là tri kỷ của mình, và Thúy Kiều với đôi mắt xanh biếc, cũng nhìn Từ như một bậc anh hùng “hai mặt nhìn nhau bằng hai lòng”, bởi lẽ “trai yêu nhau”. . Anh hùng “gặp đỗ quyên”. Cuộc hôn nhân này đã mang đến cho Kiều và Từ Hải một cuộc sống hạnh phúc, bình yên nhưng người vợ xinh đẹp, thông minh, sắc sảo và phúc hậu lại không thể níu chân Từ, khiến chàng “động lòng bốn phương” là thấy trong lòng rạo rực, háo hức được đi đến trời cao đất rộng, đến cuộc sống tự do, phiêu bạt bốn phương… Những hình ảnh “bốn phương”, “trời biển” hùng vĩ, tráng lệ xuất hiện liên tiếp trong bài thơ đã thể hiện lí tưởng và khát vọng cao cả của Từ.Con người ấy đã nói là làm,nói là đi,đi là đi.Đó chính là bản lĩnh mạnh mẽ, phi thường của người anh hùng.
Nguyễn Du để Từ Hải ngồi trên yên ngựa với tư thế sẵn sàng ra đi, rồi từ biệt Kiều. Có thể thấy đây là một cuộc chia tay hết sức bất thường. Cuộc đời Kiều đã trải qua nhiều lần chia tay. Đó là cuộc chia tay với Kim Trọng trong âm thầm, lưu luyến “khách lên ngựa người vẫn ghé” – của một đôi trai gái thanh tú mới gặp lần đầu mà đã “tình trong như đã mặt ngoài đã e”; đó là cuộc chia tay cay đắng với Thúc Sinh “kẻ lên ngựa, kẻ chia ô”. Trong cuộc chia tay này, Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng của một con người ra đi vì nghĩa lớn. vì chính nghĩa của mình, vì chính nghĩa của mình. Tiếng gọi của sự nghiệp khiến anh rung động. Tú không thể đắm mình trong căn phòng và Kiều không thể ngăn cản anh thực hiện khát vọng nghề nghiệp của mình. Sự nghiệp đối với Tú là trên hết. Đó không chỉ là ý nghĩa của cuộc đời anh mà còn là điều kiện để anh thực hiện những nguyện vọng, tâm nguyện mà người bạn tri kỷ đã giao phó. Vì thế, Tú quyết định dứt áo ra đi, không chút lưu luyến, lưu luyến.
Khi Thúy Kiều xin Từ buông tha cho mình, Từ đã trách móc tri kỉ không dứt bỏ được “người con gái chung”. Từ Hải mong Kiều vượt lên trên những tình cảm tầm thường để được làm vợ một người anh hùng có chí khí phi thường. Cho nên về sau trong nỗi nhớ của Thúy Kiều “Cánh hồng bay tuyệt vời/Mòn con mắt trời” không chỉ có sự mong chờ người yêu phương xa mà còn có cả sự mong đợi sự nghiệp thành đạt.
Lời nói của Từ Hải cũng cho thấy ông là người rất tự tin. Ngay trong cảnh trần truồng, Từ Hải đã thấy mình như một bậc anh hùng, sự nghiệp tưởng như nắm chắc trong tay. Bây giờ anh mới bắt đầu với “yên kiếm” nhưng anh đã khẳng định không quá một năm sau anh sẽ trở lại với một gia tài kếch xù.
Từ Hải là nhân vật được Nguyễn Du xây dựng theo hướng lý tưởng hóa. Để xây dựng nhân vật này, nhà thơ đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để khắc họa hình tượng người anh hùng: cách dùng từ, xây dựng hình ảnh, ngôn ngữ đối thoại,… tất cả đều đậm chất nghĩa hiệp. vẻ đẹp khác thường của Từ Hải.
Trong đoạn trích, hàng loạt từ Hán Việt và những từ chỉ hành động mạnh mẽ như “trượng phu”, “nhanh nhẹn” diễn tả hành động dứt khoát, mạnh mẽ của con người hào hiệp ấy.
Những hình ảnh kì vĩ, hào hùng như “động lòng bốn phương”, “quyết dứt áo ra đi”, “trời bao la” đã giúp nhà thơ thể hiện được khí thế hào hùng của phong thái người anh hùng trong lúc chia tay. . Con người ấy muốn vẫy vùng trời cao đất rộng, không chịu trói mình trong cuộc sống tù túng. Nguyễn Du so sánh Tử Hạ với loài chim khi cất cánh như mây ngang trời, mỗi lần bay đi chín vạn dặm mới dừng lại. Hình ảnh ấy đã giúp tác giả thoải mái miêu tả phút chia tay giữa Từ Hải và Thúy Kiều
Ngôn ngữ đối thoại cũng không thể thiếu giúp rèn giũa khí phách anh hùng. Biết Từ đi, “bốn bể là nhà” Kiều vẫn tha thiết xin đi cùng: “Nàng nói rằng “Phận gái ngoan/Chàng cũng muốn đi theo thiếp” anh. trở về với “vạn binh tinh nhuệ – tiếng chiêng dậy đất, bóng chiều giăng lối.” Anh hứa “Một năm sau sẽ có!” Lời nói của Tử không chỉ thể hiện khí phách dũng cảm của người anh hùng mà còn thể hiện rằng ông là người rất tự tin, tin vào sức mình, tin vào tài năng của mình, ông sẽ làm nên nghiệp lớn.
Sử dụng linh hoạt và sáng tạo các yếu tố nghệ thuật: ngôn từ, hình ảnh, ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Từ Hải. Khuynh hướng lí tưởng hoá với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động thấm nhuần lí tưởng.
Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 10:
Các bài giải bài tập lớp 10 sách mới:
chi-khi-anh-hung.jsp
Giải bài tập lớp 10 theo sách mới môn học