Phân tích tinh thần yêu nước qua các tác phẩm từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945
Đề bài: Qua phần văn thơ yêu nước đã học từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, anh (chị) hãy chứng minh khí phách anh hùng, ý chí kiên cường và lòng yêu nước nồng nàn của các tác giả trong tập sách này. Giai đoạn này.
Phân tích tinh thần yêu nước qua các tác phẩm từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945 – văn mẫu 1
Một đặc điểm nổi bật, sáng chói của đạo đức Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, đã trở thành truyền thống quý báu, thể hiện qua các thời kỳ lịch sử. Đầu thế kỷ XX đến năm 1945 là thời kỳ đất nước ta có những chuyển biến đặc biệt. Đó là thời kỳ thực dân Pháp cai trị nước ta vô cùng tàn ác, bóc lột đến cùng cực. Các vua quan phong kiến bóc lột nhân dân một cách dã man. Phong trào cách mạng liên tục nổi lên, nhất là từ năm 1930, Đảng Cộng sản ra đời và lãnh đạo cách mạng. Văn học Việt Nam giai đoạn này là tiếng nói yêu nước, thương nòi và kêu gọi toàn dân đứng lên cứu nước, cứu nước của các nhà nho, sĩ phu yêu nước, chiến sĩ cách mạng.
Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, các tác giả đã dùng ngòi bút của mình để thể hiện một cách nồng nàn, mãnh liệt lòng yêu nước đó. Nhiều tác phẩm, từ những câu ca dao truyền miệng đến những bài thơ bí mật được viết trong các nhà tù của đế quốc, đã minh chứng cho điều này. Đó là những tiếng nói thiết tha, tiếng kèn vang dội, cổ vũ toàn dân đứng lên cứu nước, cứu nòi:
Đầu thế kỷ XX, mỗi người Việt Nam đều xúc động khi nghe những vần thơ du dương của Phan Bội Châu:
Giang tay ôm đối tác kinh tế,
Há miệng cười cho hả hận.
(Vào nhà ngục Quảng Đông để cảm nhận) Phan Châu Trinh giữa gian lao khổ sai giữa Côn Đảo vẫn khẳng định một niềm tin:
Tháng ngày bảo vệ cơ thể
Nắng mưa cứ bào mòn tấm lòng son sắt.
(Đập đá ở Côn Lôn)
Với nhiệt huyết yêu nước, thù nhà, các quan lại đầu thế kỷ đã lập công “Ba tấc đao một gươm nhà súng – Một lông vừa trắng vừa chiêng”. Và từ bên kia châu Âu, lời tuyên ngôn của “người anh hùng, vị thiên thần, đáng hy sinh cho nền độc lập, được hai mươi triệu người trong vòng nô lệ tôn thờ” mà Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến lãnh tụ yêu nước trong truyện ngắn Varen Phan Bội Châu được đăng trên một tờ báo ở giữa Paris. Không riêng gì Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, mà vô số “con Lạc cháu Hồng, mặc dù trong hoàn cảnh “Tứ bể có khách không nhà – Lại thêm tội người giữa năm châu” (Vào nhà ngục Quảng Đông cảm thấy như Họ vẫn không nhụt ý chí, chỉ coi ngục tù là cơ hội để nghỉ ngơi khi đã “chạy mỏi chân” trong cuộc hành trình gian khổ tìm đường cứu nước.” với giọng điệu lạc quan, kiên cường:
Tuyệt vời cho tuyết lở núi
Cầm búa đập năm bảy đống
Phá vỡ hàng trăm viên đá.
(Đập đá ở Càn Lớn – Phan Châu Trinh)
Nhưng không phải ai cũng có khả năng và điều kiện trực tiếp chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giành độc lập. Nhiều người tuy bất lực cầm vũ khí, không đáng tát vào mặt kẻ thù bằng những vần thơ sôi nổi, hăng hái và dũng cảm như cụ Phan hay Nguyễn Ái Quốc, nhưng họ vẫn có tiếng nói đóng góp. kín đáo, xa cách hơn nhưng không kém phần tha thiết. Khi Tản Đà mệt mỏi kêu lên:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Bây giờ tôi đang chán một nửa …
(Muốn Làm Cuội)
Ta cảm nhận một nỗi buồn man mác của nước mất nhà tan, đồng thời là một tâm trạng buồn về sự bất lực của mình trước thảm cảnh của đất nước.
Trong thơ mới thời đại, hình tượng con hổ trong bài “Nhớ rừng” của Thế Lữ đã thể hiện một cách hào hùng nỗi nhớ về quá khứ oanh liệt, hào hùng của đất nước xen lẫn buồn đau trong cảnh hiện tại. Bây giờ tôi đã bị làm nhục và bị cầm tù.” Giọng nói thê lương, hoài niệm về quá khứ vàng son đó vang vọng trong hình ảnh của những cậu bé 13 tuổi còn ngồi đó:
Người qua đường không ai hoặc
Lá rơi trên trang giấy
Ngoài trời đang mưa và bụi bặm.
(Ông, Vũ Đình Liên)
Phải chăng là để tỏ lòng thương cảm với những trí thức tài hoa của đất nước đang chết dần chết mòn vì sự Âu hóa của thực dân? Đau lòng trước hoàn cảnh đó, có thể coi đó là tâm thế yêu nước, xót xa trước nỗi đau của dân tộc.
Chúng ta có thể nhận định: hàng loạt tác phẩm văn học ra đời trong nửa đầu thế kỷ này gặp nhau ở một điểm: nhiệt huyết yêu nước, khát vọng cứu nước, đau xót trước cảnh nước mất nhà tan. Dù có những biểu hiện khác nhau, mức độ tích cực khác nhau nhưng đều khẳng định tấm lòng sâu nặng thiết tha với đất nước, với dân tộc.
Ông cha ta ngày xưa giương cao ngọn cờ yêu nước, giữ nước đến ngày nay. Với tiếng nói tâm huyết của đàn anh của biết bao người lính, chúng ta không thể tô vẽ đẹp hơn, làm sáng lên truyền thống dân tộc giàu và mạnh trong thời đại ngày nay.
Phân tích tinh thần yêu nước qua các tác phẩm từ đầu thế kỉ 20 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945 – văn mẫu 2
Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX đã chuyển mình theo hướng hiện đại hóa. Thành tựu quan trọng nhất là bộ phận văn học yêu nước và cách mạng, tiêu biểu là các nhà thơ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Tuấn Khải, Phạm Tất Đắc, Tản Đà. Những thành tựu về nghệ thuật mới chỉ là những mầm mống ban đầu, nhưng nổi bật nhất là những tư tưởng cải cách, cải cách xã hội, là tinh thần yêu nước nồng nàn, cảm động trong một thời kỳ quá độ của cách mạng Việt Nam. Tuy không có đường lối đúng đắn nhưng các nho sĩ, nho sĩ này đã thể hiện rõ khí phách anh hùng, ý chí quật cường và lòng yêu nước nồng nàn qua thơ văn.
Trước hết là hình ảnh cảm động về người chí sĩ Việt Nam qua ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc trong Những câu đố hay Phan Bội Châu. Trong truyện, khi nghe Varen nói không dứt, Phan Bội Châu im lặng, trơ như tượng trước miệng lưỡi điêu luyện, xảo quyệt của Varen. Ngay cả khi đầu ria mép của anh ta chỉ nhô lên một chút, anh ta sẽ thắng. Ông lão làm Varen ngạc nhiên về thái độ trang nghiêm và lòng yêu nước cao cả. Thật vậy, anh hùng ngoài ngục là điều đáng khâm phục, anh hùng trong ngục lại càng đáng ngạc nhiên và khâm phục hơn. Phan Bội Châu kiên cường giữa gian khổ lỡ bước, vẫn ung dung coi đó là cơ hội để nghỉ ngơi: Vẫn là thiên tài, vẫn là phú quý.
Nếu bạn chạy mệt mỏi, bạn sẽ ở trong tù.
Hãy nghỉ ngơi, chúng ta sẽ tiếp tục trên con đường cách mạng, con đường cứu nước. Ý chí ấy không hề bị lu mờ trước gông cùm của nhà tù, sự nghiệp ấy gắn bó mật thiết với cuộc đời của người cách mạng:
Thân còn đó, sự nghiệp còn bao nguy hiểm?
Cùng thời với Phan Bội Châu còn có nhà cách mạng, nhà Nho ôn hòa Phan Châu Trinh. Trong nhà ngục Côn Lôn, bị tra tấn tra tấn, khí phách anh hùng và ý chí kiên cường của Phan Châu Trinh càng thể hiện rõ:
Là một chàng trai đứng giữa đất Côn Lôn, vùng đất huy hoàng khiến núi non sụp đổ. Lấy búa đập năm bảy cọc. Đập vỡ vài trăm tảng đá.
Phải chăng chính ý chí kiên cường đã khiến kẻ thù khiếp sợ, và tinh thần sắt đá của những nhà cách mạng ấy đã trở thành nét son trong lịch sử dân tộc.
Đất nước là máu thịt của nhân dân. Đất nước mất chủ quyền, thơ văn thời kỳ này thường mang một tình cảm yêu nước nồng nàn.
Những bài “Đêm chở nước” của Trần Tuấn Khải, “Chiêu hồn nước” của Phạm Tất Đắc, “Nhớ cảnh Hàm Rồng” của Tản Đà đều chứa chan tình cảm yêu nước. Những lúc bế tắc trên con đường cứu nước, nhiều người mang tâm tình như cô gái gánh nước ban đêm vì sông tối mà đi đường khuya thì ngại ngùng nên than thở:
Nước non gánh nặng, chồng ngoan có tốt không?
Là người yêu nước, ý thức được tình trạng mất chủ quyền, làm sao không xót xa đến độ hỏi trời: ta trông cậy vào vua quan. Ôi, danh hiệu mới cao quý làm sao: cha công mẹ nhân dân.
Vậy cha mẹ đâu?
Thưa rằng: Trong nhà ấy, cách chừng bốn năm trăm thước. Đình đó cũng ở trên đê, nhưng cao và vững chãi, dù nước có lớn hơn cũng không sao.
Một cách tài tình, nhà văn bắt đầu miêu tả “công mẹ cha”, bắt đầu từ cái móng cao nhưng vững chắc đối lập với thế giới của người dân, những ngôi nhà của người dân bị lũ lụt.
Tiếp đó, ta còn được biết thêm không khí hân hoan, hình ảnh tráng lệ và những sinh hoạt nhộn nhịp, nhàn nhã của đình làng: Trong đình đèn đuốc sáng trưng; Quân lính, kẻ hầu người hạ, tấp nập đi lại, trông thật vui mắt. Đặc biệt có đủ thầy cả, thầy đội nhất, thầy đội nhì và tổng chánh ngồi hầu bài. Các quan thanh thản và an nhàn biết bao! Họ thoải mái và tận hưởng và vui vẻ cùng nhau. Riêng cấp dưới còn được ưu đãi đặc biệt. Một mình quan ăn được: Bên cạnh, bên tay trái, đặt một bát yến hấp đường phèn trong khay khảm trai.
Cũng là nhà, cũng là nước, nhưng nước mất nhà tan, trời ơi!
Trời không có câu trả lời nên cuối cùng là tiếng kêu bàng hoàng, đau đớn thấu lòng của người dân mất nước:
Hét vang trời một tiếng. Để thân mình tan chảy cùng non sông đất nước!
Từ nguyện vọng cao cả ấy, với tấm lòng gắn bó mật thiết với giang san ấy, nhân dân Đại Việt với tình đồng bào tha thiết kêu gọi nhau quyết liều thân cứu nước, không thể trông cậy vào ai. :
Hỡi đồng bào, những người con của gia đình Đại Việt, có thân xác mà không biết sống là gì. Tháng ngày chậm chờ thời gian. Ngẩn ngơ dựa dẫm, ai thương?
Hiểu hoàn cảnh đất nước ấy, ta mới hiểu trái tim nồng nàn đến độ khô héo biết bao! Nhiều cuộc đấu tranh vũ trang đã bị dập tắt. Vì thế, lòng yêu nước thật thân thương, đầy lo lắng nhưng đầy dũng cảm và kiên quyết:
Nghĩ thân héo hơn đêm, Nhìn sông nhớ sông. Một cảnh đêm hiu quạnh, Muốn đem máu đỏ nhuộm giang san.
Lòng yêu nước sâu sắc không chỉ thể hiện trong thơ ca chiến đấu hay căm thù giặc mà còn thể hiện trong niềm khao khát cảnh sắc quê hương. Nếu ta yêu cảnh đẹp, nếu ta yêu giang san Cẩm tủ, thì nước mất nhà ta càng thêm buồn. Vì vậy, ca ngợi đất nước là một biểu hiện tinh tế của lòng yêu nước. Ta có thể hiểu được tình cảm của nhà thơ Tản sông núi Đà đối với cảnh Hàm Rồng:
Ai dụ tôi bỏ lỡ Hàm Rồng, tôi không muốn xem cho bằng lòng.
Nhà thơ chân thành ước mong cái đẹp trường tồn mãi mãi:
Ước gì sông còn sâu, Non cao vẫn xanh. Khung hình vẫn như tranh, tàu cứ chạy, đi mãi
Từng lời, từng chữ đều thể hiện ước mơ tốt đẹp, sự gắn bó ân cần với quê hương! Điều đó cho thấy họ luôn theo dõi sát sao sông núi của đất nước.
Nhìn lại chặng đường văn học đầu thế kỷ XX, phải kể đến thành tựu nội dung đặc sắc này. Đó là thời kỳ cách mạng Việt Nam đang chuyển mình, loay hoay tìm con đường cứu nước hữu hiệu nhất. Đó cũng là lúc bọn thực dân đàn áp các phong trào đấu tranh. Trong màu khói lửa ấy, những trái tim yêu nước vẫn ngời sáng, cất cao tiếng kêu cứu nước, thắp lên ý chí sắt đá của những người yêu nước, quyết đổ dòng máu nóng rửa sạch vết nhơ nô lệ. (Phan Bội Châu). Tự hào thay nét son của sử và văn ta!
Xem thêm các bài văn mẫu thuyết minh, phân tích, lập kế hoạch tác phẩm lớp 8:
Mục Lục Văn Mẫu | Ngữ văn hay lớp 8 theo từng phần:
dap-da-o-con-lon.jsp
Các bài văn lớp 8 khác