Đề bài: Phân tích tình cha con qua hai nhân vật Sửu (bố) và Tí (con) trong đoạn trích trong tác phẩm “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh
Hồ Biểu Chánh là nhà văn rất quen thuộc của người dân Nam Bộ. Ông là tác giả của hơn 60 tiểu thuyết, được coi là một trong số ít người tiên phong đặt nền móng cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông không chỉ phản ánh phong phú, chân thực phong cách sống của người dân Nam Bộ mà còn thể hiện đạo lý tốt đẹp của con người giữa cuộc đời. Tiểu thuyết “Cha và con” đã làm nổi bật tình cảm sâu nặng, xúc động của nhân vật bố Sửu và con trai Tí, mà đoạn văn hiện in trong sách Ngữ văn 11 là một trường hợp điển hình.
Trước hết, ta thấy đoạn trích hiện ra trước mắt người đọc hình ảnh ba nhân vật, nhưng điều thú vị là chỉ có hai (Sửu và Tị). Tuy chỉ qua một đoạn trích nhưng số phận của nhân vật Sửu hiện lên khá đầy đủ. Trần Văn Sửu có hoàn cảnh rất khó khăn. Tình cờ, anh ta nổi tiếng là kẻ giết vợ. Sợ pháp luật truy lùng, trừng trị, Trần Văn Sửu phải sống lẩn trốn, ngay cả tên tuổi, tung tích cũng phải tìm cách xóa đi. Hơn chục năm trời, Trần Văn Sửu phải chịu đau đớn về thể xác lẫn tinh thần, chịu sự dằn vặt của lương tâm. Những điều đó được thể hiện qua lời kể của nhân vật khi anh ta gặp lại bố vợ và đứa con trai yêu quý của mình. Tác giả chưa miêu tả chiều sâu nội tâm nhân vật, chủ yếu dùng hành động, lời nói để thể hiện phẩm chất đạo đức của Trần Văn Sửu. Trong hoàn cảnh không đáng sống ấy, dù Trần Văn Sửu đã sống những ngày không còn mạng người, nhưng ông không chết vì thương con, vì cắn rứt lương tâm. Anh là người thật thà, hiền lành, chất phác, yêu thương vợ con nhưng vợ anh lại là một cô gái điếm lăng nhăng. Anh sợ rằng khi anh chết đi và những đứa con của anh không hiểu đúng về cha của chúng, chúng sẽ sống trong đau đớn vì chúng là con của một người cha độc ác. Rõ ràng Trần Văn Sửu có tâm cao thượng chỉ muốn nhận khổ với người vợ bất hạnh, không muốn những đứa con thơ ngây, vô tội của mình khổ đau, không muốn tâm hồn chúng bay bổng. cơn đau hành hạ. Hóa ra sau bao năm đau khổ về thể xác lẫn tinh thần, ông Sửu vẫn không chết, vì thương con, vì thiện chí của con.
Ông Sửu về làng tìm lại các con sau bao năm chờ đợi các con khôn lớn để nói chuyện với các con. Đây là lúc bạn có thể hiện thực hóa suy nghĩ đó. Gặp lại bố vợ, ông Sửu chấp nhận mọi lời sỉ vả, nhục mạ để đạt được mục đích của mình. Trần Văn Sửu nói với bố vợ bằng những lời đầy nước mắt xót xa, thể hiện đầy đủ tình thương vô bờ bến của người cha đối với con. Nỗi nhớ con da diết cháy bỏng khiến ông trở thành một người kiên quyết: “xăm mình bước ra cửa”, “cởi mũ ra, cầm trên tay”. Mặt khác, cũng chính vì thương con, khao khát được gặp con mà ông đã thực sự mềm lòng: “…nhìn xuống đất hai dòng nước mắt chảy dài… Trần Văn Sửu đã nói rồi mà khóc lóc thảm thiết”. Trần Văn Sửu xót xa: “Mười một năm nay cực khổ, nhưng cố sống cũng là vì mong một ngày được nhìn thấy mặt em. Tôi làm sao? Ôi Chúa ơi!”. Chỉ bằng một từ than thở, cũng gợi lên trước mắt ta cuộc đời bất hạnh của Trần Văn Sửu và tình thương con mãnh liệt, muốn gặp con dù chỉ một chút nhưng không được. Nỗi nhớ con da diết cháy bỏng khiến Sửu không kìm được mà thốt lên: (3 lần với Hường Thị Tạo):
“…Tôi sẽ trở nên quá nhỏ”
“…Nhớ tụi nó quá anh ơi!”
“…Tôi nhớ mình còn quá trẻ”.
Chính tình thương con của ông Sửu đã lay động và đánh thức những tình cảm tốt đẹp trong con người Hường Thị Tạo. Từ chỗ ông ban đầu mắng mỏ “Thằng khốn nạn. Đi ngay…đừng quay lại đây nữa” đến chỗ ông cụ cũng nghẹn ngào xúc động với Sửu: “Hương Thị Tảo nghe những lời bi thảm đó Anh ấy cảm động quá, chịu không nổi nên cũng khóc luôn”. Sau khi nghe Hường Thị Tạo nói rằng các con bà vẫn yêu bà, Trần Văn Sửu chỉ muốn nhìn mặt chúng dù bà phải giấu mình là người Thổ. Chi tiết đó thể hiện rõ nỗi tủi hờn của người cha bất hạnh. Sửu về lại mong gặp con đến mức sẵn sàng lặng lẽ ra đi khi biết con đã hiểu đúng mình và sắp được sống hạnh phúc mãi mãi. Vì sợ liên lụy đến con cái, ông Sửu sẵn sàng từ bỏ niềm khao khát cháy bỏng được gặp lại các con. Trần Văn Sửu bằng lòng “nhận những đau khổ, tủi hờn đó, miễn là giàu sang sung sướng”. Chia tay người bố vợ hiền lành, nhân hậu, ông Sửu ra đi nhất quyết không quay lại.
Với đoạn đọc đối thoại nội tâm: “Bây giờ sao tôi còn sống! Bấy lâu nay tôi lăn lộn sống cũng là vì thương con, sợ nó không hiểu chuyện rồi oán hận. tôi, tôi sợ anh bơ vơ, đói khổ, mà tội nghiệp cho mình, giờ tôi biết anh yêu tôi, anh vẫn tôn trọng tôi, nhưng gần giàu sung sướng rồi, tôi nên chết thôi, chết đi mới quên hết được đồ cũ ta chết cho hết sầu khổ”, một đoạn văn rất mới so với văn học trung đại, Hồ Biểu Chánh đã tái hiện lại vẻ đẹp tâm hồn của cha ông: Sửu về cũng là vì muốn gặp con, mẹ đi rồi mãi mãi vì bạn. Hai thái cực đó thể hiện tấm lòng nhân hậu của người cha bất hạnh trong hoàn cảnh khó khăn. Còn bây giờ ông muốn chết, nên chết để “quên hết chuyện cũ”, “cho hết ưu phiền”, chết để không liên lụy đến con cháu! Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh để nhân vật nhớ lại quá khứ sống vì con, chết vì con (“Nghĩ thế rồi nhắm mắt”…). Trong trí tưởng tượng của ông Sửu, hình ảnh người vợ đã khuất như một nỗi ám ảnh tội lỗi dai dẳng, dày vò trái tim ông. Điều đó khiến anh muốn chết đi cho quên chuyện cũ để chấm dứt đau khổ. Mặt khác, hình ảnh ngây thơ của những đứa trẻ ngoan ngoãn đã khiến ông đau đáu trong lòng, trong tận cùng nỗi đau đó, vẻ đẹp của lòng trung thực và tình yêu thương trẻ thơ cũng tỏa sáng. Nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn trích “Cha và con” là hiện thân của phẩm chất đạo đức truyền thống giàu tính nhân văn. Người đàn ông hiền lành lương thiện ấy đã phải sống một cuộc đời bất hạnh, nhưng tấm lòng lương thiện, vị tha, thương con của người cha ấy vừa có tác dụng truyền cảm hứng, vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Truyện được kết cấu theo trình tự thời gian, nhân vật được khắc họa chủ yếu qua hành trang và lời kể, mục đích sáng tác là răn dạy, tuyên truyền đạo đức. Đó là điều ta thấy trong văn học dân gian và văn học trung đại. Nhìn chung, cuộc gặp gỡ giữa Sửu và bố vợ là một tình tiết đầy cảm xúc. Đó là tình cảm khao khát của một người cha dành cho đứa con của mình, là sự vén mở những bí ẩn thầm kín đã giấu kín trong lòng suốt 11 năm qua. Sở dĩ 11 năm qua ông Trần Văn Sửu chưa muốn kết liễu đời mình là vì ông muốn có một giây phút gặp mặt con trai. Nhưng chưa gặp con đã gặp bố chồng. Ngôn ngữ đối thoại ở đây đầy tâm trạng, đồng thời rất tình cảm, mang sắc thái ngôn ngữ Nam Bộ độc đáo. Sự phát triển nhân vật trong đoạn văn này dựa trên các quy luật tâm lý và hoàn toàn logic. Đó là một thành công trong việc xây dựng nội tâm nhân vật của tác giả. Tác giả khéo léo tạo ra những tình huống để nhân vật bộc lộ nội tâm.
Bên cạnh tình cảm sâu nặng của người cha dành cho con, là lòng hiếu thảo của người con khi gặp lại cha sau 11 năm xa cách. Dường như đã 11 năm hình ảnh người cha không thể xóa nhòa trong lòng người con hiếu thảo. 11 năm trôi qua. Tí (con) phải sống thiếu tình thương của cha dành cho mình, chính vì vậy khi gặp lại cha, tình thương cha lại trào dâng và lấp đầy tâm hồn Tí. Lúc này, Tí chỉ biết có cha, khao khát được sống trong tình yêu thương của cha.
Tình cha con sâu nặng giữa cha con anh Tí mang đến cho chúng ta những cảm xúc vô cùng thấm thía. Vì tình bạn ấy không tồn tại từ một phía (Sửu) mà xuất phát từ hai phía như một sự gặp gỡ vừa cần thiết vừa thiêng liêng. Trước hết, tình thương cha, hiểu cha và muốn gắn bó với cha khiến cậu trở nên điềm tĩnh và năng động. Anh đĩnh đạc, chủ động hỏi ông nội: “Bố cháu đi đâu rồi ông?”. Lễ phép và tích cực đi theo bố khi Sửu ra về. Nó lao theo nó, giọng nói thêm từ trong sâu thẳm tình phụ tử sao lại xúc động đến thế: “Ai vậy? Cha đó hả cha?”. Trong lúc Trần Văn Sửu muốn tự tử để kết thúc cuộc đời đau khổ thì Tí đã đến với tình yêu chân thành dành cho cha và cứu cha sống lại. Cảnh hai cha con gặp nhau thật cảm động, sống động và giản dị: “Cậu bé chạy lại nắm lấy tay cha, nhìn kỹ vào mặt cha, nhìn cha rồi ôm chặt cha vào lòng và nói: “Bố ơi! Cha! Anh sẽ đi đâu?” Lúc đó, Trần Văn Sửu như mất trí, mất nghị lực, máu trong tim đập thình thịch, nước mắt giàn giụa, anh đứng hớ hênh, không nói được một lời nào. Gặp bố, Tí kiên quyết không rời bố nửa bước. trở về khi cha tôi đã chết.” Dù đã mười một năm không gặp cha, không được cha chăm sóc, nuôi nấng nhưng khi gặp cha, tình phụ tử trong anh lập tức tràn ngập. Cũng vì con mà ra đi vì con, nên Tí cũng theo cha về chăm cha, quên đi cuộc sống hiện tại… Đó là cái “nghĩa nặng” của tình cha con được thể hiện ở đây.
Tóm lại: Đoạn trích cha con được in trong SGK ngữ văn 11 là cuộc gặp gỡ đầy xúc động và đẫm nước mắt giữa hai cha con Sửu, Thông qua những tình huống gay cấn, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp của hai cha con. hình ảnh nội tâm của nhân vật hai cha con. Ở đây tôi nghĩ về bạn bằng cả trái tim và đối với tôi điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Đoạn trích, bên cạnh nghệ thuật miêu tả cảnh vật, hấp dẫn còn phải kể đến ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả. Cha và con nghĩa nặng tình sâu nghĩa, mang dấu ấn của thời kỳ đầu đổi mới văn học theo khuynh hướng hiện đại. Trước hết, nó được viết bằng chữ quốc ngữ, bằng lời ăn tiếng nói (ngôn ngữ hàng ngày), bằng những câu văn xuôi rất mới, nhưng vẫn rơi vào thể thơ “Trên trời trăng trong, trăng trong. chao đảo, dưới sông có dòng ngọc…”. Truyện mang dấu ấn của sự chuyển…
Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:
cha-con-nghia-nang.jsp
Các bộ đề lớp 11 khác